
Trải lòng với nghiệp hát xoan, suốt bao năm qua, người dân phường xoan An Thái, xã Phượng Lâu, TP.Việt Trì (Phú Thọ) vẫn quen gọi bà Nguyễn Thị Lịch bằng cái tên “Quế Hoa”. Chất giọng ngọt ngào, trong trẻo của cô đào nhan sắc từ tuổi 13 đến “trùm phường xoan” hay nghệ nhân dân gian hôm nay cùng sự tâm huyết, đắm đuối với làn điệu truyền thống hát xoan đã khôi phục và đưa làn điệu dân ca vùng đất tổ quê nhà trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Đào xoan trôi nổi phận mình
“Tay bưng chén muối... ối a đĩa gừng/Gừng cay muối mặn... ối a xin đừng... xin đừng quên nhau”... Những làn điệu đằm thắm, ân tình của khúc hát môn đình như giục giã tôi trở về An Thái vào một ngày mưa xuân. Dường như “chất xoan” đã thấm vào từng mảnh đất, con người nơi đây, từ người già đến trẻ, ai ai cũng thuộc làu những làn điệu hát xoan. Giữa ngôi đình cổ kính rêu phong, nghệ nhân Lịch cùng gánh hát của phường trải lòng về nghiệp hát xoan.
Đào Lịch sinh ra và lớn lên trên quê hương đất tổ, trong một gia đình 5 đời hát xoan. Ông nội và cha bà đều là những nghệ nhân, trùm xoan nổi tiếng, còn mẹ bà cũng là một cô đào nức tiếng trong vùng, vì thế chất xoan đã “ngấm” vào người nghệ nhân ấy tự bao giờ. Bến đò Ðức Bác bên dòng sông Lô là nơi lưu giữ kỷ niệm ấu thơ của đào Lịch. Từ nhỏ, bà đã theo gánh hát của ông nội đi khắp nơi biểu diễn, thức cùng những canh hát thâu đêm suốt sáng, xế bóng trăng tà, để rồi đến năm 13 tuổi gần như bà đã thuộc hết 14 quả cách (làn điệu) và trở thành đào nương trẻ tuổi của làng.
Bước chân vào nghề xoan chưa được bao lâu thì những điệu xoan bỗng nhiên “đứt đoạn”. Đó là khi chiến tranh, giặc giã và nạn đói triền miên ập xuống, ngôi làng mất đi những trùm xoan, những gánh hát giải thể, phiêu bạt khắp nơi. Tuy phường xoan không còn nhưng chưa bao giờ trong ngôi nhà của bà im tiếng hát xoan. Với tình yêu xoan, người nghệ nhân già Nguyễn Tất Thắng (cha bà Lịch) đã quyết tâm phục dựng lại phường xoan. Ban đầu, ông tìm lại tư liệu, rồi tập hợp những người biết hát xoan trong vùng, chẳng mấy chốc phường xoan nhanh chóng được khôi phục. Khi cha qua đời, bà Lịch đã tiếp quản mọi công việc của phường xoan từ năm 1997 đến nay. Bằng tình yêu xoan, bà đã dành cả cuộc đời, tâm huyết để duy trì, bảo tồn và phát triển bộ môn nghệ thuật hát xoan.
Cuộc đời của cô đào Lịch cũng nổi chìm theo gánh hát. Người xưa có câu “hồng nhan bạc phận” và câu nói này vận đúng vào số phận của cô đào Lịch. Bà kể, trong một dịp hội làng, khi đào Lịch vừa tròn đôi mươi, kép Lễ đã ngỏ lời thương bà. Cuối năm 1970, cặp đào - kép tài sắc ấy nên vợ nên chồng. Hạnh phúc của đôi vợ chồng son chửa tày gang, người chồng lên đường nhập ngũ. Ba năm sau, gia đình nhận được tin báo tử của anh ở mặt trận miền Nam. Trong suốt 10 năm thờ chồng nuôi con vò võ, nhiều đêm bà gạt nước mắt một mình. Những lời đúm giao duyên vẫn hiện về đêm đêm với giọng đào lời kép: “Đúm này ta dặn thì nghe/ Đúm bay cho tới áo the đúm vào/ Đúm vào người hỏi làm sao/ Em là quả đúm, em vào kết duyên” hay “Tam thanh một cảnh huê cau/ Đôi ta thấp bé lấy nhau cũng vừa/ Tam thanh một cảnh huê hò/ Lòng anh muốn lấy trọ nhà họ xoan”.
Mười năm sau, bà kết duyên cùng một anh bộ đội quê xứ Đoài. Là một người phụ nữ mực thước, chu toàn, trước mỗi chuyến đi xa biểu diễn, bà luôn thu vén gọn gàng công việc gia đình rồi mới yên tâm công tác. Những tưởng hạnh phúc sẽ bù đắp cho những mất mát, hẩm hiu của phận cô đào, nào ngờ một lần nữa ông trời lại cướp đi người thân yêu nhất của bà. Năm 2011, do bạo bệnh, người chồng thứ hai sớm qua đời. Nói đến đây, bà không giấu nổi nước mắt mà nói rằng: “Đời tôi một mình cuối cùng vẫn cứ một mình”. Những năm tháng ấy, đào Lịch tưởng chừng không thể vượt qua nổi, nhưng chính câu xoan nhịp phách đã nâng đỡ mẹ con bà vượt qua khó khăn sóng gió cuộc đời.
“Quế Hoa” thời nay
Kể từ khi xoan cổ chỉ là ký ức đẹp của những người dân miền trung du đất tổ cho đến khi trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đào Lịch vẫn nặng lòng với xoan. Từ khi còn là cô đào, cho đến “trùm xoan”, ở bất kỳ vai, cảnh hay quả cách nào, bà vẫn giữ cho mình phong cách biểu diễn ấn tượng với chất giọng trong trẻo, điệu múa điêu luyện, say đắm lòng người. Có lẽ, cũng vì cái tài “hát hay, múa dẻo” hơn người mà suốt bao đời nay, cánh đào kép trong làng vẫn gọi bà bằng cái tên Quế Hoa.
Nở nụ cười đôn hậu, bà Lịch kể chuyện: “Trong một lần đi ngang qua vùng đất này, một người thiếp của vua Hùng trở dạ và phải dừng chân nghỉ lại. Nhờ có tiếng ca của nàng Quế Hoa xinh đẹp, hát hay, múa giỏi, người thiếp đã hạ sinh được 3 chàng hoàng tử khôi ngô, tuấn tú. Vua Hùng mừng rỡ, truyền Quế Hoa vào cung biểu diễn và cho phép các cung tần, mỹ nữ trong cung theo học múa, hát. Vùng đất ấy được vua ban thưởng và đặt tên là An Thai - nơi bắt nguồn của hát xuân, mà sau này được đọc khác thành hát xoan. Về sau, ngôi làng được đổi tên thành làng An Thái và hát xoan được phổ biến rộng rãi trên đất tổ. Cái tên Quế Hoa cũng ra đời từ đó.
Nếu như Quế Hoa thời xưa xinh đẹp, múa dẻo, hát hay thì “Quế Hoa” thời nay cũng chẳng kém. Trong quá khứ, khi những điệu hát xoan rơi vào quên lãng, chính cô đào nương đã đánh thức những điệu xoan sống lại. Ngày qua ngày, cô đào ấy nuôi dưỡng thành những gánh hát, phường hát. Và cũng chính người nghệ nhân ấy đã “lao tâm khổ tứ” tìm lại những tài liệu cổ về xoan, vận động thành lập những gánh hát, phường xoan cho đến khi hát xoan được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong phường xoan, mỗi người đảm nhiệm một vai, một cảnh, còn riêng nàng “Quế Hoa” có thể diễn nhiều vai: Kép, đào, gõ trống, gõ phách, đưa cách... Dù ở vai nào, người nghệ nhân ấy cũng diễn xướng điêu luyện, hài hòa.
Đầu xuân, khi công việc đồng áng, đồi nương xong xuôi, bà Lịch cùng gánh hát thường đi lưu diễn khắp nơi trong và ngoài tỉnh, chủ yếu là biểu diễn ở các lễ hội làng. Hội chính của làng An Thái vào ngày 9 tháng 9 âm lịch.
Người nghệ nhân ấy dồn hết thời gian, tâm huyết để xây dựng và đưa phường xoan phát triển, thu hút trên 85 đào, kép, đủ mọi lứa tuổi tham gia. Hằng năm, bà đào tạo cho cả chục, trăm đào, kép. Ban ngày, những người dân An Thái cần mẫn bên con trâu, thửa ruộng. Đêm tới, họ trở thành những nghệ nhân tài ba biểu diễn hát xoan giữa đình làng. Cuối tuần, trùm xoan cùng gánh hát lại quây quần bên manh chiếu hoa cùng nhau luyện tập và sẻ chia những kinh nghiệm hát xoan. Và cứ như thế, những điệu hát xoan một thời thất truyền giờ đây lại được ngân vang trong từng ngõ xóm, từng thế hệ. Cho đến tuổi lục tuần, cô đào Lịch vẫn tự hào rằng: “Với tôi, tình yêu xoan lấp đầy tất cả”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét